Lý Đợi & Liêu Thái: thơ Trần Vàng Sao
November 28, 2009 at 4:24 pm 3 comments
Nhà thơ Trần Vàng Sao tên thật Nguyễn Đính, sinh năm Tân Tỵ 1941, quê quán làng Đông Xuyên, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế, sinh sống từ thuở ấu thời đến nay tại phường Vỹ Dạ, thành phố Huế. Năm 1962, ông đậu tú tài ở Huế và dạy học ở Truồi. Thời gian này ông bắt đầu tham gia phong trào chống Mỹ ở Huế. Năm 1965 ông thoát ly lên rừng chiến đấu. Năm 1970 ông bị thương, được đưa ra miền Bắc chữa bệnh an dưỡng. Theo lời kể lại của nhà thơ Thái Ngọc San, người cũng thoát ly ra Bắc và đã gặp nhà thơ Trần Vàng Sao, thì đây là quãng thời gian khổ ải nhất của Đính, nhưng ông vẫn lạc quan, trung thành với lý tưởng của mình.
Tháng 5 năm 1975, ông trở về Huế được phân công làm liên lạc (đưa thư) rồi công tác ở ban Văn Hóa Thông Tin xã và nghỉ hưu năm 1984. Vào thời điểm này, bài thơ “Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình” của ông được đăng trên Sông Hương, số kỷ niệm 5 năm ngày tạp chí ra đời. Bài thơ lập tức gặp phản ứng dữ dội của một số chức sắc địa phương, nhà thơ Thái Ngọc San, thư kí tòa soạn, người chịu trách nhiệm chọn đăng bài thơ phải rời khỏi tờ báo, và nhà thơ Trần Vàng Sao tiếp tục sống với những khó khăn của riêng mình.
Thơ Trần Vàng Sao mang hơi thở nóng hổi của cuôc sống, gần gũi với nhân dân nhất là giới cùng đinh, thấp cổ bé miệng, sống tận đáy xã hội (những người được nhân danh cho cuộc đấu tranh giai cấp), với văn phong trong sáng giản dị mà vô cùng sâu sắc, sử dụng ngôn từ bình dân nhưng bác học, trải nghiệm những thực tế mà ông đã sống, chiến đấu, thơ ông đã vẽ nên một bức tranh sống động của một đất nước lầm than ngập chìm trong chiến tranh, nghèo đói và lạc hậu với một ước mơ muôn đời là hoà bình và no ấm.
Người ta có thể nghĩ khác về ông, cho thơ ông là có vấn đề, nhưng ông vẫn tự tại, tự tại sống, tự tại làm thơ, và bạn bè muôn nơi vẫn đến với ông. Bởi vì ông là nhà thơ biết yêu nước mình, thật sự yêu nước mình…
(Nguyễn Miên Thảo “Nhà thơ Trần Vàng Sao – Kẻ bất phùng thời”)
__________________________
Những bài thơ này trích từ tập Bài thơ của một người yêu nước mình của Trần Vàng Sao, NXB Giấy Vụn, 11.2009.
tau chưởi
tau tức quá rồi
tau chịu không nổi
tau nghẹn cuống họng
tau lộn ruột lộn gan
tau cũng có chân có tay
tau cũng có đầu có óc
có miệng có mắt
có ông bà
có cha mẹ
có vợ con có ngày sinh tháng đẻ
có bàn thờ tổ tiên một tháng hai lần
rằm mồng một hương khói bông ba hoa quả
tau đầu tắt mặt tốiđổ mồ hôi sôi nước mắt
vẫn đồng không trự nõ cósuốt cả đời ăn tro mò trú
suốt cả đời khố chuối Trần Minh
kêu trời không thấu
tau phải câm miệng hến không được nói
không được la hét
ghĩ có tức không
tau chưởi
tau phải chưởi
tau chưởi bây tau chưởi thẳng vào mặt bây
không bóng không gió
không chó không mèo
mười hai nhánh họ bây đem lư hương bát nước
giường thờ chiếu trải sắp hàng một dãy ra đây
đặng nghe tau chưởi
tau kêu thằng khai canh khai khẩn tam đợi mười đời
cao tằng cố tổ ông nội ông ngoại cha mẹ chú bác cô dì con cháu thân hơi cật ruột bây tau chưởi
tau chưởi cho tiền đời dĩ lai bây mất nòi mất giống hết nối dõi tông đường
tau chưởi cho mồ mả bây sập nắp
tau chưởi cho bây có chết chưa liệm ruồi bu kiến đậu
tam giáo đạo sư bây cố tổ cao tằng cái con cái thằng nào móc miếng cho bây
hà hơi trún nước miếng cho bây
bây ỉ thế ỉ thần
cậy nhà cao cửa rộng
cậy tiền rương bạc đống
bây ăn tai nói ngược
ăn hô nói thừa
đòn xóc nhọn hai đầu
ngậm máu phun người
bây bứng cây sống trồng cây chết
vu oan giá hoạ
giết người không gươm không dao
đang sống bây giả đò chết
người chết bây dựng đứng cho sống
bây sâu độc thiểm phước
bây thủ đoạn gian manh
bây là rắn
rắntoàn là rắn
như cú dòm nhà bệnhđêm bây mò ngày bây rình
dưới giường
trên bàn thờtrong xó bếp
bỏ tên bỏ họ cha mẹ sinh rabây mang bí danh anh hùng dũng cảm vĩ đại kiên cường
lúc bây thật lúc bây giả
khi bây ẩn khi bây hiện
lúc người lúc ma
lúc lên tay múa ngón sủi bọt mép gào thét
lúc trợn mắt khua môi múa mỏ đả đảo muôn năm
lúc như thầy tu vào hạ
lúc như con nít đói bụng đòi ăn
hai con mắt bây đứng tròngbây bắt hết mọi người trứơc khi chết phải hôcha mẹ bây ông nội ông ngoại bây tiên sư cố tổ bâysống dai đời đời kiếp kiếpphải quỳ gối cúi đầunghe bây nói không được cãiphải suốt đời làm người có tội
vạn đợi đội ơn bâyđứa nào không nghe bây hớt mỏ chôn sống thằng nào không sợ bây vằm mặt thủ tiêu
bây làm cho mọi người tránh nhau
bây làm cho mọi người thấy nhau nhổ nước miếng
đồ phản độngđồ chống đốiđồ không đá bàn thờ tổ tiênđồ không biết đốt chùa thiêu Phậtthượng tổ cô bà bâymụ cô tam đợi mười đời bây
tau xanh xương mét máu thân tàn ma dại
rách như cái xơ mướp chùi trách nồi không sạch
mả ông bà cố tổ bây kết hết à
tụi bây thằng nào cũng híp mắt hai cằm
bây ăn chi mà ăn đoản hậu
ăn quá dã man
bây ăn tươi nuốt sống
mà miệng không dính máu
người chết bây cũng không chừa
năm năm mười năm hai mươi năm
xương chân xương tay sọ dừa vải liệm
bây nhai bây khới bây mút
cả húp cả chan
bây còn kêu van xót ruột
bao nhiêu người chết diều tha quạ rứt
xươngkhô cốt tàn dọc bờ dọc bụi giữa núi giữa rừng
để bây xây lăng đắp mộ
dựng tượng dựng đài
chocha mẹ cố tổ bây
hỡi cô hồn các đảng
hỡi âm binh bộ hạ
hỡi những kẻ khuất mặt đi mây về gió
trong am trong miếu giữa chợ giữa đườngđầu sông cuối bãi
móc họng bóp cổ móc mắt bọn chúng nó
cho bọn chúng nó chết tiệt hết cho rồi
bây giết người như thế
bây phải chết như thế
ác lai thì ác báo
tau chưởi ngày chưởi đêmmới bét con mắt ra tau chưởi
nửa đêm gà gáy tau chưởi
giữa trưa đứng bóng tau chưởi
bây có là thiền thừ mười tám con mắt tau cũng chưởi
mười hai nhánh họ bây
cao tằng cố tổ bây
tiên sư cha bây
tau chưởi cho bây ăn nửa chừng mẻ chai mẻ chén
xương cá xương thịt mắc ngang cuống họng
tau chửi cho nửa đêm oan hồn yêu tinh ma quỷ
mình mẩy đầy máu hiện hình vây quanh bây đòi trả đầu trả chân trả tay trả hòm trả vải liệm
tau chưởi cho cha mẹ bây có chết cũng mồ xiêu mả lạc
đoạ xuống ba tầng địa ngục bị bỏ vào vạc dầu
tau chưởi cho cha mẹ bây có còn sống cũng điên tàn
đui què câm điếc làm cô hồn sống lang thang đầu đường xó chợ
bốc đất mà ăn xé áo quần mà nhai cho bây có nhìn ra
cũng phải tránh xa
tau chưởi cho con cái bây đứa mới đi đứa đã lớn
sa chân sẩy tay đui què sứt mẻ nửa đòi nửa đoạn
chết không được mà sống cũng không được
tau chưởi cho dứt nọc dòng giống của bây cho bây chết sạch hết
không bà không con
không phúng không điếu
không tưởng không niệm
không mồ không mả
tuyệt tự vô dư
tau chưởi cho bây chết hết
chết sạch hết
không còn một con
không còn một thằng
không còn một mống
chết tiệt hết
hết đời bây
29 tháng 6 năm 1997
________________
nhân dân và tôi
Nhân dân và tôi
chúng ta gặp nhau
mỗi ngày
như người câm
không nói
chiến tranh đi qua đi qua
người vẫn chết
còn chết vô tình
ở Sơn Mỹ Ba Làng An
Đắc tô Đắc Xiêng
Đường Chín
ở miền Nam
miền Bắc
Campuchia
ai biết
còn chết mãi
Nửa đêm thức dậy
nghe tiếng còi tàu thở hơi than máy đen
cùng nỗi mệt mỏi
của những khúc gỗ trôi trên sông một mùa nước trước
đã đi qua những chặng rừng không cây cối
đất đỏ bom hoang
khi cuộc biểu tình bị đàn áp
chúng ta rát cổ hô hào
dân chủ tự do
trong mạch máu những con giòi còn rúc
đứng đầy đường đại bác xe tăng
chúng ta nói chúng ta còn lực lượng
nhân dân ơi
tôi khóc tôi khóc
em bỏ về một mình
hai hàng cây xanh đường Trưng Trắc
bao giờ tôi mới được hôn em
Chúng ta gặp nhau
còn gặp nhau
mỗi ngày
như nhân dân
còn gặp nhau
bốn ngàn năm chưa thấy mặt
Việt Nam
Nhân dân ơi
mỗi lon gạo lon bắp
mỗi củ khoai củ sắn trồng trên đất này
chưa được tự do ăn
nên còn đẩy xe thuê
làm đĩ
lượm lon
hốt rác
mỗi ngày
như mọi đêm
Nhân dân ơi rất anh hùng
Nhân dân ơi chúng ta còn đông
nơi mũi chông nhọn chúng ta giận dữ
đòi trả thù
và được ăn no
Chúng ta gặp nhau
mỗi ngày
thân mật
như nhân dân còn đông lực lượng
tôi yêu em
như người lạ
vô cùng đắng cay
hôm qua hôm nay
ngày mai ngày mốt
người chết
người sống
không nói
không cười
không khóc
hòn đạn bắn vào đầu
hòn đạn đồng thối
quá khứ như một đống phân
tương lai treo ngọn cờ đỏ
nhân dân tôi
rất độ lượng
chống đất đứng dậy làm anh hùng
nhân dân ơi
trong giọt máu này của tôi
da vàng Châu Á
(tháng 5 năm 1970)
__________________
bài thơ của một người yêu nước mình
buổi sáng tôi mặc áo đi giầy ra đứng ngoài đường
gió thổi những bông mía trắng bên sông
mùi toóc khô còn thơm lúa mùa qua
bầy chim sẻ đậu trước sân nhà
những đứa trẻ đứng nhìn ngấp nghé
tôi yêu đất nước này như thế
mỗi buổi mai
bầy chim sẻ ngoài sân
gió mát và trong
đường đi đầy cỏ may và muộng chuộng
tôi vẫn sống
vẫn ăn
vẫn thở
như mọi người
đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ
một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu
một vết bùn khô trên mặt đá
không có ai chia tay
cũng nhớ một tiếng còi tàu
mẹ tôi thức khuya dậy sớm
năm nay ngoài năm mươi tuổi
chồng chết đã mười mấy năm
thủa tôi mới đọc được i tờ
mẹ thương tôi mẹ vẫn tảo tần
nước sông gạo chợ
ngày hai buổi nhà không khi nào vắng người đòi nợ
cũng không vui nên mẹ ít khi cười
những buổi trưa buổi tối
ngồi một mình hay khóc
vẫn thở dài mà không nói ra
thương con không cha
hẩm hiu côi cút
tôi yêu đất nước này xót xa
mẹ tôi nuôi tôi mười mấy năm không lấy chồng
thương tôi nên ở goá nuôi tôi
những đứa bà con hằng ngày chửi bới
chúng cho mẹ con tôi áo quần tiền bạc như cho một đứa hủi
ngày kỵ cha họ hàng thân thích không ai tới
thắp ba cây hương
với mấy cái bông hải đường
mẹ tôi khóc thút thít
cầu cha tôi phù hộ tôi nên người
con nó còn nhỏ dại
trí chưa khôn chân chưa vững bước đi
tôi một mình nuôi nó có kể chi mưa nắng
tôi yêu đất nước này cay đắng
những năm dài thắp đuốc đi đêm
quen thân rồi không ai còn nhớ tên
dĩ vãng đè trên lưng thấm nặng
áo mồ hôi những buổi chợ về
đời cúi thấp giành từng lon gạo mốc
từng cọng rau hột muối
vui sao khi còn bữa đói bữa no
mẹ thương con nên cách trở sông đò
hàng gánh nặng phải qua cầu xuống dốc
đêm nào mẹ cũng khóc
đêm nào mẹ cũng khấn thầm
mong con khôn lớn cất mặt với đời
tôi yêu đất nước này khôn nguôi
tôi yêu mẹ tôi áo rách
chẳng khi nào nhớ tuổi mình bao nhiê
tôi bước đi
mưa mỗi lúc một to
sao hôm nay lòng thấy chật
như buổi sáng mùa đông chưa có mặt trời mọc
con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua
nỗi mệt mỏi rưng rưng từng con nước
chim đậu trên cành chim không hót
khoảng vắng mùa thu ngủ trên cỏ may
tôi yêu đất nước này những buổi sớm mai
không ai cười không tiếng hát trẻ con
đất đá cỏ cây ơi
mười ba năm có héo mòn
đất đá cỏ cây ơi
lòng vẫn thương mẹ nhớ cha
ăn quán nằm cầu
hai hàng nước mắt chảy ra
mỗi đêm cầu trời khấn Phật tai qua nạn khỏi
ngày mai mua may bán đắt
tôi yêu đất nước này áo rách
căn nhà dột phên không ngăn nổi gió
vẫn yêu nhau trong từng hơi thở
lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài
thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai
tôi yêu đất nước này như thế
như yêu cây cỏ trong vườn
như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương
nuôi tôi thành người hôm nay
yêu một giọng hát hay
có bài mái đẩy thơm hoa dại
có sáu câu vọng cổ chứa chan
có ba ông táo thờ trong bếp
và tuổi thơ buồn như giọt nước trong lá sen
tôi yêu đất nước này và tôi yêu em
thuở tóc kẹp tuổi ngoan học trò
áo trắng và chùm hoa phượng đỏ
trong bước chân chim sẻ
ngồi học bài và gọi nhỏ tên tôi
hay nói chuyện huyên thuyên
chuyện trên trời dưới đất rất lạ
chuyện bông hoa mọc một mình trên đá
cứ hay cười mà không biết có người buồn
sáng hôm nay gió lạnh vẫn còn
khi xa nhà vẫn muốn ngoái lại
ngó cây cam cây cải
thương mẹ già như chuối ba hương
em chưa buồn vì chưa rách áo
tôi yêu đất nước này rau cháo
bốn ngàn năm cuốc bẫm cày sâu
áo đứt nút qua cầu gió bay
tuổi thơ em hãy giữ cho ngoan
tôi yêu đất nước này lầm than
mẹ đốt củi trên rừng cha làm cá ngoài biển
ăn rau rìu rau éo rau trai
nuôi lớn người từ ngày mở đất
bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ
một tiếng nói cũng đầy hồn thánh Gióng
tôi đi hết một ngày
gặp toàn người lạ
chưa ai biết chưa ai quen
không biết tuổi không biết tên
cùng sống chung trên đất
cùng nỗi đau chia cắt bắc nam
cùng có chung tên gọi Việt Nam
mang vết thương chảy máu ngoài tim
cùng nhức nhối với người chết oan ức
đấm ngực giận hờn tức tối
cùng anh em cất cao tiếng nói
bản tuyên ngôn mười bốn triệu người đòi độc lập tự do
bữa ăn nào cũng phải được no
mùa lạnh phải có áo ấm
được nói cười hát ca yêu đương không ai cấm
được thờ cúng những người mình tôn kính
hai mươi năm cuộc đời chưa khi nào định
tôi trở về căn nhà nhỏ
đèn thắp ngọn lù mù
gió thổi trong lá cây xào xạc
vườn đêm thơm mát
bát canh rau dền có ớt chìa vôi
bên hàng xóm có tiếng trẻ con khóc
mẹ bồng con lên non ngồi cầu ái tử
đất nước hôm nay đã thấm hồn người
ve sắp kêu mùa hạ
nên không còn mấy thu
đất nước này còn chua xót
nên trông ngày thống nhất
cho người bên kia không gọi người bên này là người miền nam
cho người bên này không gọi người bên kia là người miền bắc
lòng vui hôm nay không thấy chật
tôi yêu đất nước này chân thật
như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi
như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
và yêu tôi đã biết làm người
cứ trông đất nước mình thống nhất
19–12–1967
—————————————————————-
Liêu Thái – Đọc thơ Trần Vàng Sao: Những câu thơ chảy máu dưới bầu trời chậm chạp
(Đọc tập thơ Bài thơ của một người yêu nước mình, Nxb Giấy Vụn, 2009)
Cái cảm giác ấy, một thứ cảm giác chảy máu và âm ỉ nội thương mà Trần Vàng Sao đã thác vào thơ dường như không riêng gì ông mang, chỉ có điều ông nói nó ra một cách cụ thể, rành mạch và nói như trối chết, nói như chuẩn bị tắt thở, chẳng còn sợ vì cái chết đã ngấm vào căn phận Việt buồn của ông. Và cái chết, dù muốn thấy hay không muốn thấy nó cũng đã ngấm ngầm gặm nhấm sinh mệnh văn nghệ, sinh mệnh tự do của hằng thế hệ Việt trong một tương lai mù…
tôi yêu đất nước này như thế
mỗi buổi mai
bầy chim sẻ ngoài sân
gió mát và trong
đường đi đầy cỏ may và muộng chuộng
tôi vẫn sống
vẫn ăn
vẫn thở
như mọi người
đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ
một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu
một vết buồn khô trên mặt đá
không có ai chia tay
cũng nhớ một tiếng còi tàu
mẹ tôi thức khuya dậy sớm
năm nay ngoài năm mươi tuổi
chồng chết đã mười mấy năm
thủa tôi mới đọc được i tờ
mẹ thương tôi mẹ vẫn tảo tần
nước sông gạo chợ
ngày hai buổi nhà không khi nào vắng người đòi nợ
sống qua ngày nên phải nghiến răng…
(Trần Vàng Sao – “Bài thơ của một người yêu nước mình”)
Suốt bài thơ là nỗi đau đáu của một người yêu nước mình, mà dường như không chỉ một người, có đến chí ít là hai người, trong hai người ấy lại có vô số người yêu nước, họ chấp nhận, cam chịu một đời sống như động vật, đau khổ, tủi nhục, “nghiến răng mà sống” để vin vào niềm tin nào đó mơ hồ, huyễn hoặc… Và cuối bài thơ (đúng hơn là gần cuối bài thơ) một phần khác, phần tưởng niệm cho những khoảnh khắc não trạng thăng hoa của người yêu nước mình bị tịch thu, bị thiến: SÂN KHẤU II đã bị tịch thu ngày 26 tháng 1 năm 1972 tại K65 – thị xã Sơn Tây. Phải chăng đó cũng là cái giá của một người yêu nước? Và yêu nước là một cái tội, vì lẽ, lòng yêu nước từ lâu đã được đánh tráo, thay thế bởi lòng yêu tập thể, yêu tổ chức, yêu Đảng? Những thứ tình cảm vượt ngoài qui tắc trên trở thành phản bội, tội đồ?
tôi hãy tưởng tượng một hôm tôi được ăn thịt
tôi vui vẻ nói cười
miếng thịt có khúc mỡ dày
chảy tuột qua cuống họng tôi
hai mắt tôi mở to
tôi ngồi dưới đất và
đĩa thịt rất mềm trước mặt
những lá hành dài nổi
trong nước mỡ
tay tôi cầm đĩa và miệng tôi nhai
mặt trời chói trong lá cây
buổi trưa mùa hè không có gió
tôi ngủ dậy đưa tay cào cổ
nước sông mặn
tôi ra ngoài cửa ngõ đứng hút thuốc
rồi nói to mọt mình
đến chiều trời sẽ mưa dông rất mát
ngày 19 tháng 8 năm 1982
(Trần Vàng Sao – “Tôi được ăn thịt”)
Có lẽ khi Trần Vàng Sao viết những dòng thơ thèm thuồng tục luỵ này, khi ông “hãy tưởng tượng một hôm tôi được ăn thịt”, ông vẫn chưa quên cái không khí cách mạng vùng lên cướp chính quyền, cách mạng nổi lên như ong vỡ tổ của ngày 19 tháng 8 năm 1945 mà ông đã được nghe, được đọc, được tuyên truyền (vì chắc chắn ông không có mặt trong cuộc nổi dậy đó được, ông sinh năm 1941, bốn tuổi chưa giác ngộ cách mạng kịp đâu!) để rồi sau đó ông dành gần nửa cuộc đời phụng sự, trung thành và sống chết, trả giá với nó. Một cuộc nổi dậy, cuộc cách mạng đầy những hứa hẹn cơm no áo ấm, dân chủ, công bằng, văn minh, tiến bộ… Và ông – một trí thức, một thi sĩ, một người yêu nước mình đã có một “nỗi thèm thuồng” dưới mức của một con người bình thường trong cái ngày “trọng đại” này!
Bài thơ của ông gợi cho tôi – một đứa hậu sanh ra đời sau 1975 – nhớ đến một câu chuyện khác có liên hệ đến bản thân. Tôi còn nhớ hồi đó, những năm 80 thế kỉ trước, trong thôn tôi ở thường tổ chức họp an ninh vào 16 âm lịch hàng tháng. Và hình như là trên toàn quốc, đâu cũng vậy. Chủ trì cuộc họp là ông tổ trưởng tổ an ninh, ông này tuy lụ khụ, đọc biên bản chữ được chữ mất nhưng oai ra phếch, được mấy bà xun xoe, bợ đỡ ác lắm! Trong một kì họp, tôi nhớ không lầm là năm đó tôi 10 tuổi, ông trưởng an ninh lập biên bản khiển trách bà ngoại tôi vì tội ăn thịt gà. Ngoại tôi cố gắng chứng minh là bà tự nuôi gà làm thịt ăn chứ không mua của tư thương và cũng không mua của ăn cắp. Ông này bảo bà tôi làm vậy là trái với tinh thần xã hội chủ nghĩa, trong lúc mọi người đang tập trung xây dựng xã hội chủ nghĩa mà “bà làm gà ăn thịt” là tiếp tay cho tội ác, là hậu phong kiến… Nghe đến đây, bà tôi nổi khùng vì ông tôi vốn là ông nghè dạy học, bị xếp vào địa chủ, bị tịch thu toàn bộ tài sản. Im lặng một lúc, bà hỏi: “Thưa ông trưởng ban an ninh, tôi hỏi ông nhé, con trai tôi bỏ xương máu cho sự nghiệp cách mạng, tôi còn mỗi đứa con gái và thằng cháu ngoại, giờ nó bịnh, tôi cho nó uống thuốc có tội hay không? Ông trả lời nhanh!” “Không có tội” – ông ta trả lời. “Vậy thì hồi đầu hôm tới giờ ông toàn nói nhảm, tôi làm thịt con gà đen hầm thuốc bắc cho thằng cháu nó chữa bịnh suy dinh dưỡng, tôi đâu có ăn nhậu, làm sao gọi là tội được. Mà tôi cũng hơi lạ là tôi làm thịt gà buổi tối, gà không kêu, ông ở cách nhà tôi gần 3 cây số mà ông biết được là quá siêu! Nhưng ông sai rồi, tôi về đây!” Nói xong, bà tôi đứng dậy ra về… Mặt ông trưởng ban hầm hầm hự hự… Cũng may bà tôi là mẹ liệt sĩ, nếu không thì chuyện không nhỏ tí nào. Và, chuyện anh Trần Vàng Sao tự nằm mơ thấy mình được ăn thịt, hay nhiều người khác nằm mơ, nằm ác mộng gì đó trong cái “ngày trọng đại” kia âu cũng không có gì lạ lẫm trong xứ sở này!
tôi thấy tôi như người tù được thả rông
lang thang giữa đường giữa phố
nhìn hết mọi người
xem mình lâu ngày mặt mũi có khác mọi người
không
tôi đi lui
tôi đi tới
phố phường đông chật
tiếng cười tiếng la tiếng nói tiếng xe cộ
chẳng có ai quen thử nói chào tôi một tiếng
tôi đưa hai tay lên đầu vuốt tóc
lấy chân hất một hòn đá
cúi xuống nhìn mấy bao thuốc không bên lề
đường
rồi đi về
qua cầu dép sút một quai
tôi không nhớ gì hết
(…)
Tôi vỗ tay hoan hô…
(Trần Vàng Sao – “Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình”)
Cảm thức xuyên suốt tập thơ là cảm thức chạy trốn, chối bỏ chính mình. Chạy trốn, chối bỏ vì nó chính là mình, nó là căn để của mọi hệ luỵ mà người thơ phải nếm trải như một rủi ro định mệnh. Chạy trốn vào cơn du miên bất tận, chạy trốn vào hình hài điên rồ, thác loạn, chạy trốn vào thân tàn ma dại người người ngợm ngợm giữa phố phường, giữa tám chục triệu con người vẫn thấy mình lạc lõng, bơ vơ… Và hoan hô những phù hư của một thời nhầm lẫn khôn nguôi…
người thổi chai thổi cái chai qua lỗ trống
người thổi chai thổi từ cái không ra cái có
người thổi chai thổi cái không để đựng cái có
người thổi chai không thổi được cái chất chai chỉ thổi
được hình chai
người thổi chai thổi mình vào cái chai
(Trần Vàng Sao – “Thổi chai”)
Làm thơ, trong một ý nghĩa và chừng mực nào đó có thể ví nó cũng là công cuộc thổi chai, “thổi mình vào cái chai” để chiêm nghiệm cái không có thật trong cuộc đời, để nhấm nháp nỗi hư huyễn của tuổi trẻ, của một thời dám mang máu tim, thân thể ra đánh đổi cho một thứ gì đó nửa phật nửa ma, và cái giá, kết cục cho mình là sự phũ phàng, là những vết thương dần dà đi đến triệu chứng tự giam, triệu chứng thực vật trong một cơ thể vẫn hoạt động bình thường. Thiết nghĩ, đâu riêng gì Trần Vàng Sao, đã có rất nhiều người trong đất nước này đã tự làm một công – cuộc – thổi – chai, rồi tự giày vò, tự đau khổ, tự làm lành những vết thương bằng những cơn đau khác mà thời cuộc đã mang đến trao họ… Điều may mắn, mà cũng là rủi ro của Trần Vàng Sao nằm ở chỗ ông là một thi sĩ, ông có thể đại diện cho chính mình và cho nhiều người phát biểu lên những thống khổ của một kiếp người trót chọn một con đường. Và cũng chính vì ông là thi sĩ nên hệ luỵ dành sẵn cho ông cũng lớn hơn bao người khác!
Và, đôi khi thứ hệ luỵ ấy được giấu đi trong nhiều mã ngôn từ, dưới những lớp vỉa lịch sử, thời gian. Tuy nhiên, những gì thuộc về máu xương, sinh mệnh và sử lịch, dù nằm ở tầng bậc nào thì người ta cũng không thể giấu đi sự thật – sự thật về thân phận con người, sự thật về những sự thật bị bưng bít, giấu nhẹm – chính những trang giấy trắng tưởng niệm cho những trang thơ bị chết, từ k65 – thị xã Sơn Tây ngày 26 tháng 1 năm 1972, cho đến những chú giải dưới bài thơ về ngày, tháng, năm đã khảm vào người đọc (kể cả người viết) một dấu ấn khó phai về những ngày tưởng chừng như rất bình thường trong đời sống nhưng lại mang đầy máu và nước mắt…
Những trang thơ đã hy sinh cho chủ nhân của nó, cho tính mệnh văn nghệ của người viết nên nó đã phản ánh lên một sự thật khác.
Và, cái điều mà rất nhiều nhà xuất bản được mệnh danh chính thống, được cấp giấy phép hẳn hoi, được cài đặt trong một hệ thống chính qui đã không làm được hoặc cố tình không làm được vì một lý do tế nhị hoặc bỉ ổi nào đó thì nhà Giấy Vụn đã làm được một cách dũng cảm, đầy nhân tính – xuất bản một cách công khai, tôn trọng bản quyền, chú thích những trang viết bị tịch thu – hành vi này cói thể phương hại đến quá trình, tương lai xuất bản của họ. Nhưng họ đã làm. Vì, suy cho cùng, thi ca, đâu chỉ đơn giản là bề mặt chiếc vỏ ốc, mà, hãy lắng nghe những âm thanh u a phát ra từ bên trong vỏ ốc kia, dù điều ấy cũng rất vô thường!
… Như những câu thơ đang chảy máu dưới bầu trời chậm chạp!
© 2009 Liêu Thái
© 2009 talawas blog
Entry filed under: bloggers, Các tin liên quan, FreeLeCongDinh. Tags: lieu thai, ly doi, talawas.
3 Comments Add your own
DO NOT Leave a Reply - Ý kiến của bạn sẽ không được hiển thị
Trackback this post | Subscribe to the comments via RSS Feed
1. Dở Sống - Dở Chết | November 29, 2009 at 6:49 am
Hỡi bác Trần Vàng Sao ơi ! Hỡi nhà xuất bản Giấy Vụn ơi !
Dưới chế độ Cộng Sản XHCN lao động là vinh quang, lang thang là chết đói, nói nhiều là vô tù, lù đù là đớp sạch thì thân phận của Bác, của em, của con bác, của con em, của cháu bác, của cháu nội – cháu ngoai em cũng chẳng khác gì thân phận Dở Sống – Dở Chết của con cá này…
Còn Đảng là Còn Nghèo,
Còn Đảng là Còn Dốt,
Còn Đảng là Còn Tham !!!
2. Mẹ Việt Nam | November 30, 2009 at 12:05 am
3. bó tay | December 2, 2009 at 10:02 am
Những bài thơ của ông Trần Vàng Sao quả đau đớn và đi sâu thẳng vào lòng người. Tôi không cầm được nước mắt … Xin cảm ơn nhà thơ và những người can đảm đã giới thiệu tập thơ này đến mọi người.